Nghe lời đồn ấy, có một số ý kiến phản bác ngược lại. Họ hỏi thế lúc bọn chó gầm gừ sợ hãi, bỏ ăn rồi đi mất dạng thì sao. Điều này không ai giải thích được. Thế rồi những hiện tượng lạ lại chẳng hề dừng lại mà còn ngày một kinh khủng hơn. Những ngày sau đó, giữa màn đêm tăm tối nơi trạm kiểm lâm trợ trọi giữa rừng, mọi người lại nghe thấy những tiếng động hãi hùng. Từ phía nhà kho, nhà ăn, nhà hiệu bộ, vang lên những tiếng cửa mở kèn kẹt, tiếng lục lọi đồ đạc loảng xoảng, kể cả tiếng bát đĩa đổ vỡ cũng có. Thế nhưng khi một số người hớt hải chạy đi kiêm tra thì lại không phát hiện ra ai cả, đồ đạc lẫn cửa nả vẫn còn nguyên, không có dấu hiệu bị đột nhập. Vài lần như thế, tinh thần của các kiểm lâm viên lại đi xuống trầm trọng, anh Cảnh khi ấy cũng ngày càng sợ hãi bất an. Bản thân anh cũng không thể lí giải được những gì đang xảy ra xung quanh mình. Anh kể lại rồi cố gắng giải thích với tôi bằng một vẻ mặt bất lực:
“Chú phải hiểu, lúc đấy anh hoang mang tới thế nào. Bản thân anh từ nhỏ tới lớn, sống rất đơn giản, chỉ quan tâm tới thờ cúng ông bà tổ tiên chứ những điều khác liên quan tới tâm linh anh không hề biết. Nhưng rồi cứ ở vùng đất ấy, đêm đêm tận tai mình nghe thấy
đáng sợ xảy ra với mọi người xung quanh, dần dà anh cũng phải hướng suy nghĩ tới một thế giới vô hình đang tồn tại song song...”
Sự lạ ấy cuối cùng cũng đến tại chú Khiêm và anh Vỹ. Như mọi khi, chú Khiêm sẽ gọi lão cố vấn tâm linh kia để xin tham vân, giải mã những hiện tượng này và tìm cách giải quyết.
Sau khi chú Khiêm gọi điện hỏi ý kiến lão cố vấn, vài ngày sau đó, chú cho thuê xe ra tận Huế đón ông ta đưa đi. Chú còn sai
Vỹ, mượn
người đi cùng anh Vỹ, mượn một chiếc xe UAZ của Ủy ban xã ra trục đường quốc lộ để đón ông ta vào Trạm, còn trịnh trọng ngang cả một đại biểu cao cấp. Hành lí lão cố vấn ấy đem theo có nhiều thứ đồ lỉnh kỉnh, cồng kềnh, chủ yếu là các món đồ lễ. Khi vừa đặt chân đến căn cứ trạm, lão ta đã vội bước xuống xe, đi vòng khắp nơi trong đơn vị, dò xét, ngó nghiêng. Lão vừa đi vừa bấm đốt ngón tay, lôi ra những tấm bảng bát quái, những chiếc gậy dò năng lượng mà anh Cảnh nhìn cũng không hiệu dùng để làm gì. Trưa hôm đó, trạm thiết đãi một bữa cơm rất nồng nhiệt cho ông ta, có món gì ngon cũng đem ra mời. Trong bữa cơm, có tí bia vào, ông ta bèn cao hứng khoe ra những gì ông ta vừa thấy được ở trong trạm. Khi đó, một số người ngồi ở mâm gần ban lãnh đạo nghe được mới đem kể lại cho anh em. Lão cố vấn
được mới đem kê lại cho anh em. Lão cô vân xác nhận rằng hiện giờ linh hồn của chú Dậu vẫn còn lang thang trong trạm. Vì sự việc xảy ra quá đột ngột nên chú Dậu vẫn chưa biết mình đã chết, vẫn theo thói quen, thực hiện những công việc hàng ngày. Những tiếng động trong đêm mà mọi người nghe thấy cũng là do linh hồn của chú Dậu gây ra. Do đó, ông ta nói cần phải làm một đàn lễ để đưa linh hồn chú đi, dẫn về quê nhà, nhập vào mộ phần thì mọi việc ở trong trạm mới có thể trở về bình an như trước đây. Đồ nghề, pháp khí cần thiết lão cố vấn này đã mang theo đầy đủ, chỉ còn đồ lễ như hoa quả, xôi, thịt thì phải nhờ chú Khiêm lo liệu. Tới đây, chú Khiêm vẫn như mọi khi, lập tức
tây, ch
tin tưởng mọi lời nói của lão ta, vội vàng liên hệ với bên ngoài để chuẩn bị đồ lễ, mã, đem lên trạm từ dưới chợ xã. Việc làm lễ này chú muốn gấp rút tiến hành để mọi người yên tâm công tác.
Sáng sớm hôm sau, người dân đã đi xe máy tới, đem đồ lễ mã mà chú Khiêm đặt giao vào trong Trạm. Vào buổi trưa giờ Tị, lão cố vấn tâm linh sẽ tiến hành làm lễ. Để tránh cho người ngoài nhìn vào thấy trạm kiểm lâm đang cúng bái rồi sinh ra lắm chuyện dị nghị, bàn lễ được bày biện phía sau nhà hiệu bộ. Dù sao đây cũng là một việc bị cấm trong cơ quan nhà nước. Anh Vỹ từ sáng đã xăm xắn giúp lão cố vấn tâm linh kia sắp lễ,
lên hương. Buổi lễ này hai người lãnh đạo, một số đội trưởng, nhân viên cốt cán đều tham dự. Chú Khiêm nói rằng đây là buổi lễ đề cầu siêu cho linh hồn của chú Dậu nên chẳng ai phản đối. Mọi người đều yêu quý chú nên có ý muốn tham gia, thành tâm cầu mong cho chú Dậu được an nghỉ thanh thản. Mâm lễ vô cùng thịnh soạn, có đầy đủ hoa quả, xôi chè, heo quay, gà luộc, nến, rượu thuốc,... một số con hình nhân được đặt dựa vào tường, một xấp giấy tiền các loại cũng bày trên mâm lễ. Ba nén hương được thắp lên, cắm vào trong lon gạo, tỏa ra làn khói nghi ngút.
Lão cố vấn thay bộ quần áo chỉnh tề, quỳ xuống khấn vái rồi sau đó hô to danh hiệu của một số vị Thánh, những lời thỉnh xin cho vong linh của chú Dậu được rời khỏi, được siêu thoát. Sau đó, lão cố vấn thắp lên một bó hương lớn, cầm đi khắp nơi trong căn cứ, cắm xuống đất ở nhiều nơi khác nhau, xong xuôi thì hóa giấy vàng, hình nhân trên một đụn gỗ lớn đã được xếp từ trước. Ngọn lửa bùng lên liếm lấy đống giấy mã, cháy phừng phừng, thôi ra không trung những tàn lửa bay theo gió. Nhìn cách thức lão cố vấn làm lễ, có vẻ như cũng dạn dày kinh nghiệm, trang nghiêm và bài bản lắm. Buổi lễ kết thúc nhưng trong lòng những người tham dự vẫn còn những điều lấn cấn khó có thể tả
bằng lời. Nếu như là anh Cảnh ngày trước, có lẽ anh sẽ thấy đó là những nghi lễ rườm rà không cần thiết, chăng khác gì một trò lừa đảo. Thế nhưng khi ấy anh chỉ biết im lặng quan sát.
h
Tới buổi chiều, lão cố vấn lại tiếp tục đi xung quanh căn cứ để xem xét một lần nữa, sau đó thông báo với chú Khiêm và anh Vỹ rằng chủ Dậu đã đi khỏi Trạm kiểm lâm, mọi chuyện sẽ bình thường trở lại. Ông ta nghỉ lại căn cứ trạm một đêm, sáng hôm sau vội vã rời đi. Mấy anh em thu xếp dọn dẹp và trở về công việc thường ngày. Vài ngày sau đó, đúng là mọi thứ đã trở nên yên ắng hơn, tối tối không còn nghe thấy tiếng bước chân hay tiếng động lạ trong trạm nữa.
Sang tuần sau, việc sinh hoạt và công tác của các kiểm lâm viên cũng dần trở lại bình thường, tinh thần của mấy anh em trở nên tích cực hơn, vui vẻ hơn. Mọi người đang cố gắng quên đi những việc trước đó, suy cho cùng thì ai cũng có cuộc sống riêng, những điều trăn trở riêng và phải cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, chăng ai ngờ răng, trước cơn giông bão lớn, bầu trời thường rất quang đãng, sự im ắng đó lại chính là dấu hiệu cho những điều kinh khủng hơn xảy ra sắp tới. Cuối tuần, đoàn kiểm tra đột xuất của Hạt Kiểm lâm huyện tới trạm để công tác. Thông lê. đoàn thanh tra của Hạt sẽ
công tác. Thông lệ, đoàn thanh tra của Hạt sẽ đến kiểm tra về tình hình sinh hoạt, công tác tuần tra, bảo vệ rừng của đơn vị, công tác bám nắm địa bàn, nắm bắt thông tin về thực
vật, động vật quý hiếm, tình hình mưa lũ, hay kể cả công tác phối hợp với bộ đội, đơn vị địa phương để tác chiến nếu cần. Tất cả mọi người đều bận bịu trước đó vài ngày để chuẩn bị giấy tờ, sổ sách ghi chép, tập trung toàn bộ nhân viên, phân công để phục vụ đoàn công tác, người thì được cắt cử dọn dẹp vệ sinh phòng ốc, người ph chuẩn bị thực phẩm, công tác hậu cần để tiếp cơm trưa
đoàn.
Hôm đoàn Thanh tra đến công tác, mọi việc vẫn diễn ra khá trơn tru, đây cũng không phải lần đầu tiên đơn vị kiểm lâm đón những đoàn kiểm tra như thế này. Đoàn làm việc đến trưa rồi nghỉ ngơi ăn uống cùng những kiểm lâm viên trong trạm. Tới đầu giờ chiều họ làm việc tiếp đến hơn 5h thì kết thúc. Các cán bộ chuẩn bị ra về, trong lúc Hạt trưởng, người dẫn đầu đoàn công tác đang bắt tay chào chú Khiêm Trạm trưởng cùng với các nhân viên của Trạm thì đột nhiên anh Thưởng, quê ở Bắc Giang chạy lên xin Hạt trưởng cho phép được vẽ nghỉ phép vài ngày vì gia đình có việc gấp.
Theo quy định, nếu kiểm lâm viên trong trạm chỉ xin phép nghỉ một – hai ngày, Trạm
trưởng có thể duyệt giây phép và người xin nghỉ phải báo trước một tuần để còn phân công nhân sự đảm nhiệm. Tuy nhiên nếu nghỉ lâu hơn thì phải báo cáo lên cấp trên để xét duyệt giấy phép. Người duyệt giấy nghỉ phép năm chính là chú Hạt trưởng, nếu không phải là việc gấp, phải mất vài ngày mới có phản hồi lại về vấn đề xét duyệt. Tuy nhiên lần này anh Thưởng muốn xin nghỉ có việc gấp, anh quá nóng lòng muốn đi ngay nên đành lên gặp trực tiếp Hạt trưởng để giải quyết cho anh về luôn trong ngày. Chú Hạt trưởng cũng là người dễ tính, biết linh hoạt trong các trường hợp chứ không quá cứng nhắc nên cũng đồng ý cho anh Thưởng về. Coi như chú châm chước cho anh nhưng sau đó anh vẫn sẽ phải viết giấy phép, trình lên các cấp như đúng quy trình. Nghe tới đây chú Khiêm cũng không thể có ý kiến gì thêm, bèn phân công người làm thay các nhiệm vụ cho anh Thưởng. Anh Thưởng cũng phải đi cáo lỗi với từng đồng nghiệp vì đã quyết định đi gấp để làm phiền lụy tới mọi người.
Chiều hôm đó, khi đoàn công tác lên những chiếc ô tô rời khỏi căn cứ Trạm thì cũng là lúc anh Thưởng chào tạm biệt mọi người lên xe máy và chạy về nhà. Mọi người cũng trở về các nơi được phân công thực hiện nhiệm vụ. Sĩ số khi ấy anh Cảnh nhớ chỉ còn lại chừng hơn 10 người ở trạm
chừng hơn 10 người ở trạm.
Lí do anh Thưởng phải về nhà gấp như vậy mãi sau này mọi người mới rõ. Anh Thưởng quê ở Bắc Giang, là người dân tộc Kinh. Gia đình anh cũng có chút éo le, như anh Cảnh từng nói, lên đến tận đây làm việc, không ai là không có câu chuyện riêng. Bố mẹ anh ly dị từ khi anh ấy còn học cấp 2, mẹ anh ấy lấy chồng mới, lên đất Sơn La này sinh sống. Bố anh ây cũng cưới vợ hai và ở lại quê nhà. Anh theo mẹ và dượng sống ở đây từ cấp 3, khi trưởng thành mới xin việc vào trạm Kiêm lâm Quỳnh Nhai đê làm việc. Anh quen biết và đem lòng yêu một cô gái người dân tộc Giẻ Triêng, quê ở Kon Tum. Cô gái ấy hiện làm bác sĩ tại bệnh viện Đa khoa thành phố Sơn La. Hai người yêu nhau cũng đã ba năm và muốn tiến tới hôn nhân, tuy nhiên mẹ của anh Thưởng không đồng ý, vì không muốn anh lấy vợ người đồng bào dân tộc thiểu số. Ở Sơn La, ngoài người dân tộc bản địa ra, số còn lại đa phần là dân tứ xứ từ mọi miền Tổ quốc vào làm ăn sinh sống. Vì mẹ anh Thưởng là người miền xuôi nên trong tâm lý vẫn có chút tư tưởng phân biệt với người dân tộc. Họ sinh sông, làm ăn chung với người bản địa, nhưng không muốn kết hôn, người dân tộc đến từ nơi khác thì lại càng không. Từ ấy mới sinh ra lắm sự việc đau đầu.
kết hôn, người dân tộc đến từ nơi khác thì lại càng không. Từ ấy mới sinh ra lắm sự việc đau đầu.
Bố anh Thưởng ở quê thì đồng ý với mối hôn sự này của anh. Ông có tư tưởng cởi mở hơn, ông nói răng chuyện hôn nhân tự do con cái quyết định, tự lựa chọn lấy hạnh phúc của mình. Anh yêu ai cũng được, cưới ai cũng được nhưng khi đã tiến tới hôn nhân
thì nhất định phải yên mà có trách
thương
nhiệm với người ta, đừng làm họ khổ. Mẹ anh Thưởng sau bao lâu vẫn một mực phản đối cuộc hôn nhân này. Anh Thưởng cũng đã rất khổ tâm, cố gắng bảo vệ chuyện tình yêu của mình. Sau thời gian dài anh thuyết phục, năn nỉ, mẹ vẫn chưa xuôi, nhà gái bên kia cũng sốt ruột.
(còn tiếp)