Chú Dậu quý con vô cùng, lúc nào cũng nhớ đến thằng bé. Anh Cảnh hỏi chú sao không xin về công tác ở chỗ nào gần nhà, ở tuổi này chú đi làm xa cũng vất vả. Thế nhưng chú Dậu nói sang năm là chú đã về hưu rồi, cố gắng thêm một chút, khi đó chú về ở hẳn với vợ con.
Ở trên căn cứ trạm, chẳng có gì mấy để làm, cuộc sống buồn tẻ nên chú Dậu cũng chỉ duy trì đều đều vài thói quen. Cứ theo lệ, đến 8 giờ tối hàng ngày, chú Dậu sẽ gọi điện về cho vợ, nói chuyện với con. Chú thường mở loa ngoài, vừa nghe điện thoại vừa đi bộ vòng quanh sân căn cứ trạm. Thằng bé con trai chú Dậu rất lém lỉnh, dễ thương, còn hay hát líu lo cho bố nghe, rồi hỏi khi nào bố về. Đã mấy lần mọi người đều nghe thấy chú bảo với con rằng hết năm nay bố về. Nó lại hỏi bố về rồi bố còn đi nữa không, chú trả lời không, bố về ở hẳn với con. Khi đó, thằng bé còn cười khanh khách rất vui vẻ. Anh Cảnh vẫn nhớ như in ánh mắt cười đầy trìu mến
của chú Dậu khi nhìn vào màn hình điện thoại lúc ấy. Chú Dậu còn nhắc đi nhắc lại với thằng bé: “Lần tới về bố không đi nữa. Cứ yên tâm ngoan ngoãn, nghe lời ông bà và mẹ nhé!”
Lần đó, đúng là chú Dậu về quê, không đi
Lần đó, đúng là chú Dậu về quê, không đi đâu nữa cả. Chú nằm yên mãi mãi ở nấm mồ tại quê nhà. Chú ra đi không một lời báo trước.
Chú Dậu có một thói xấu, đó là luôn thèm rượu, nhưng do quy định của cơ quan nên chú không dám uống nhiều. Mỗi buổi chiều, sau khi xong công việc, chú đều rót một cốc rượu, rang vài hạt lạc, bật chiếc đài radio lên, vừa nghe tin tức, chương trình âm nhạc vừa
ngồi nhâm nhi. Khi chú uông hết cốc rượu cũng là lúc tới giờ ăn cơm, chú xuống nhà ăn, ăn hai bát cơm rồi về phòng nghỉ ngơi. Ngày nào cũng như ngày nào, mọi người hay trêu rằng “nghe tiếng nhạc, chú Dậu ăn hạt lạc”, hễ cứ nghe thấy tiếng radio là biết lúc đó chú Dậu đang nhắm đồ. Vì tuổi cũng
.
không còn trẻ, sức khỏe chú cũng không được tốt. Chú bị cao huyết áp, mỡ máu và vài căn bệnh khác đã ngấm sau vào căn cốt của chú, giày vò thân thể chú sau hàng mấy chục năm trời lăn lộn ở nơi rừng thiêng nước độc. Cũng có nhiều lần các anh em quan tâm sức khỏe của chú, khuyên chú đừng uông rượu nữa, nhưng chú bảo quen rồi, mỗi ngày phải uống một cốc rượu, ăn cơm mới ngon, uống cho ấm người để tối đi ngủ, đỡ bị những cơn gió rừng như cắt thổi vào làm đơ cứng tay chân.
khỏe của mình đi xuống nên từ cốc rượu lớn, chú đã chuyển sang loại cốc nhỏ hơn, đủ để rót hết một lon bia (330ml). Cái ngày định mệnh ấy lại là một buổi liên hoan vui vẻ, có thịt nai để các anh em ăn bữa cải thiện rồi uống với ít bia. Chẳng là lâu lâu, người dân quanh vùng đi săn bắt được con nai hay con hoàng đều mang tới trạm, hỏi các kiểm lâm viên xem có mua không. Họ bán giá rất rẻ, còn rẻ hơn thịt bò nữa, một cân thịt nai chỉ rơi vào khoảng 150 nghìn đông. Những ngày như thế, mọi người trong trạm thường chia nhau mua hết cả con, để phần lại một ít phơi gác bếp, phần còn lại thì liên hoan bữa thịt tươi.
Hôm ấy, nhà bếp làm mỗi xong xuôi, mọi người chuẩn bị ngồi vào mâm thì không thấy chú Dậu đâu. Thế là họ bèn giục anh Cảnh lên gọi chú Dậu xuống nhà ăn tham gia. Thông thường, những buổi liên hoan như thế này, chú Dậu thường rất hào hứng, vậy mà ngày hôm ấy lại không thấy bóng dáng đâu cả. Anh Cảnh vội vã về phòng tìm chú thì đã thấy chú nằm đắp chăn trên giường. Anh Cảnh thấy lo lắng, bèn hỏi: “Chú sao thế?
Chú mệt à?”
Chú Dậu thều thào trả lời anh:
“ Ừ, chú thấy người hơi mệt, chắc chú bị trúng gió. Chú ăn cơm rồi nên giờ nằm nghỉ
Dậu không khá lên thì phải báo gấp để liên hệ xe ô tô đưa chú xuống huyện cấp cứu. Chẳng hiểu sao khi ấy, trong lòng anh Cảnh cứ cồn cào như lửa đốt, ngồi tiếp bia trong mâm cũng không cảm thấy vui vẻ gì.
Khoảng 8h tối, lúc mọi người vẫn đang ăn uống thì anh Khải vội vàng chạy vào, báo rằng chắc phải đưa chú Dậu đi cấp cứu, tình hình không khả quan lắm. Từ lúc uống thuốc tới giờ, huyết áp của chú vẫn không giảm mà mặt ngày càng đỏ, chuyên sang tím tái và khó thở. Nghe tin này cũng không ai có tâm trạng ăn uống nữa, buổi liên hoan dừng lại. Chú Khiêm trạm trưởng liền liên hệ ngay cho một nhà buôn hàng nông sản tại địa bàn, nhờ nhà đó đi xe tải chở hàng vào đưa chú Dậu đi cấp cứu. Việc đưa ai đó từ trạm kiểm lâm đi cấp cứu cũng gặp nhiều khó khăn bởi đường rừng khúc khuỷu khó đi, xe ô tô bình óm thường không thể vào được, người ôm lại
không thể ngồi xe máy, cho nên chỉ có những chiếc xe tải hai cầu chở hàng nông sản mới vào được. Nhà buôn ây cũng vô cùng nhiệt tình, ngay lập tức chạy xe từ xã vào căn cứ của trạm. Trên cabin của xe tải chỉ có thể chứa bốn người. Vì thế nên chỉ có hai người trong cơ quan được hộ tống đi theo: anh Khải nhân viên y tế và một anh kiểm lâm nữa giúp khiêng chú Dậu.
huyện cũng đã hơn 12 giờ đêm. Trước khi đi, anh Khải đã liên hệ với xe cấp cứu của bệnh viện tỉnh đưa xe cấp cứu đến đợi ở trung tâm huyện. Lúc đưa chú đến huyện, cũng là lúc xe cấp cứu đến nơi. Mọi thứ đều nhịp nhàng không để chậm trễ. Bác sĩ cấp cứu đã xác định được bệnh tình của chú Dậu nên chỉ đạo xe chạy thẳng xuống bệnh viện Quân Y của thành phố Sơn La, cách huyện Quỳnh Nhai hơn 200km. Khi xe cấp cứu vừa tới nơi cũng là lúc trời tờ mờ sáng.
Chú Dậu được đưa thẳng đến phòng cấp cứu, lúc đó chú vẫn tỉnh táo, dù mệt mỏi suốt chặng đường đi. Những người đi cùng nghĩ rằng mọi chuyện đã ổn, chú được cứu chữa kịp thời. Thế nhưng chẳng ai ngờ đến, khi chú vừa được đưa vào phòng cấp cứu thì đột nhiên ngừng thở. Y bác sĩ bệnh viện Tinh đang trực cấp cứu ở đó vội vã làm đủ cách: hồi sức tim phổi, đặt nội khí quản,... nhưng chỉ số sống của chú vẫn không phục hồi. Chú Dậu đã ra đi mãi mãi.
7 giờ sáng, anh Khải gọi điện báo về cho Trạm rằng chú Dậu đã từ trần vào lúc bình minh. Mọi người đều sững sờ, chết lặng. Cứ ngỡ đã khẩn trương hết cách để đưa chú Dậu kịp tới bệnh viện cấp cứu nhưng hóa ra vẫn là chậm một bước. Không ai tin nổi rằng chú Dậu đã không còn trên cõi đời này nữa. Mới chiều hôm qua chú vẫn còn trực tuần tra, chỉ
đạo anh em quây rào một số gốc cây bị xói mòn trên đỉnh núi, tất cả mọi người đều vui vẻ làm việc cùng nhau, thế mà giờ đây lại âm dương cách biệt. Chú mất, không một ai trong đơn vị biết cách liên lạc với gia đình chú dưới Bắc Giang để báo tin buôn cũng bởi trước đó chú rất kín tiếng về gia đình. Những người ở lại kiểm soát tư trang cho chú, để ý thấy chú vẫn còn để chiếc điện thoại ngay ngắn trên giường, dưới gối nằm của mình.
Chú Khiêm trạm trưởng bèn bất đắc dĩ lấy điện thoại của chú Dậu, bấm vào số vừa gọi gần nhất. Chú Khiêm cứ đi đi lại lại, áp điện thoại bên tai, gương mặt hằn rõ vẻ sầu khổ. Chú Dậu đi, có lẽ chú Khiêm thấy trống vắng và buồn thương hơn cả cũng bởi đó vì đó là người đồng nghiệp, người đội phó cần mẫn đã cùng sát cánh cùng chú bao năm làm nhiệm vụ trên rừng. Sau ba cuộc gọi, đầu dây bên kia cũng bắt máy. Vợ của chú Dậu là người nghe điện thoại, chú Khiêm khó nhọc báo cho cô biết chuyện đã xảy ra. Từ trong điện thoại vọng ra tiếng khóc nấc nghẹn ngào của người phụ nữ bất hạnh. Giọng chú Khiêm đã run rẩy cả đi, chú cố kiềm chế cơn xúc động để an ủi vợ chú Dậu cũng như bàn cách để đưa chú về quê nhà an táng.
gang
chú Dậu lại cống hiến bao năm ở vùng rừng biên giới này, lập được nhiều thành tích nên chú Dậu được hưởng chế độ chính sách Huân chương lao động. Công tác chính sách được chú Khiêm chỉ đạo, hoàn tất gấp trong ngày. Thế rồi sau đó từ bệnh viện tỉnh, một số người trong cơ quan đi xuống thành phố để đưa thi hài chú Dậu về quê nhà.
Mọi người về dự đám tang của chú Dậu đều xót xa không kìm được nước mắt, kể cả những người đàn ông mạnh mẽ đến mấy
cũng phải nghẹn ngào,
cũng phải nghẹn ngào, rơm rớm. Xe đưa quan tài của chú về tới cổng làng thì gia đình, họ hàng và vợ con chú đã ra đón. Con chú còn nhỏ, mặt nó ngơ ngác, mặc chiếc áo tang rộng thùng thình, đầu đội khăn trắng đứng bên cạnh mẹ. Vợ của chú trông phờ phạc, tiều tụy, chỉ có mấy ngày mà cuộc đời của chị dường như đã rẽ hẳn sang một hướng khác. Thấy rất đông người tới thăm nhà mình, toàn là các chú kiêm lâm viên mặc đồng phục chỉnh tề giống như ảnh của bố, con trai chú Dậu lại có vẻ háo hức. Khi mọi người vào thăm hỏi, động viên gia đình, thằng bé còn ngây ngô ôm mẹ hỏi bố có về cùng các chú các bác không? Nghe tới đây, người vợ đáng thương của chú Dậu liền ghì lấy con mà khóc òa lên nức nở, thằng bé chỉ biết tròn xoe mắt nhìn, sau đó cũng khóc theo. Cảnh tượng trước mắt thê lương, mọi
người thây cô họng nghẹn đăng, thương cho chú Dậu, thương cho sự nghiệp cả đời cống hiến thầm lặng với núi rừng của chú. Chú còn nợ thằng bé một lời hứa sẽ trở về ở hẳn bên cạnh con, nhưng giờ đây chú chỉ còn có thể về nằm lại mãi với quê nhà. Anh Cảnh lại tiếp tục thở dài, cảm thấy lòng trĩu nặng. Anh thực sự thấy cảm khái, muốn bày tỏ niềm tiếc nuối, trân trọng tới những con người cần mẫn dùng bao tâm huyết của mình chăm lo cho công việc, cho người dân như chú Dậu. Đã biết bao nhiêu lần là nhờ chú Dậu thông thạo đường mòn lối tắt, không quản ngại trèo qua những vực dốc hung hiểm, cứu giúp người dân bị lạc, bị tai nạn ngã xuống hay bị cô lập bởi dòng nước lũ. Chú đã giúp đỡ được biết bao nhiêu người nhưng chính cuộc đời của chú lại là một nốt nhạc trầm buồn. Anh Cảnh vẫn còn nhớ bóng dáng liêu xiêu gầy guộc của chú Dậu, vầng trán ướt mồ hôi, cõng một người đàn bà đi mót củ trên núi ngã bị thương xuống, miệt mài trên con đường rừng dốc gỗ ghế đất đá, không một lời kêu than.
Khi hậu sự của chú Dậu được hoàn tất xong xuôi, mọi người lại lên đường trở về với Trạm kiểm lâm. Sau đám tang chú Dậu, bầu không khí trong trạm kiểm lâm trở nên nặng nề, ảm đạm và vô cùng lạnh lẽo. Trong vòng có gần hai tháng trời, hai người đồng nghiệp
không khí trong trạm kiêm lâm trở nên nặng nề, ảm đạm và vô cùng lạnh lẽo. Trong vòng có gần hai tháng trời, hai người đồng nghiệp chủ chốt trong trạm đã ra đi mãi mãi. Khoảng trống của chú Dậu để lại khó thể nào mà lấp đầy, ban lãnh đạo còn chưa có kế hoạch đào tạo nhân sự thay thế, vì vậy nên việc thực hiện các nhiệm vụ gặp nhiều khó khăn. Có như vậy mọi người mới thấm thía vai trò của chú Dậu, chú đã gánh vác biết bao điều cho anh em. Thời gian ấy, anh Cảnh thấy nhớ chú Dậu cồn cào, nhớ từng điệu cười, lời nói của chú, hình dáng chú lúc đi làm việc nọ việc kia. Ai nấy đều mang một nỗi niềm trong lòng mà không dám nói ra. Mọi người không còn cười đùa, trêu chọc nhau như trước.
Vậy nhưng mọi việc chưa hề kết thúc mà lại có những điều ghê rợn hơn xảy ra.
(còn tiếp)